Ông Lý Văn Bé (Sáu Bé), sinh năm 1937, nguyên Tỉnh ủy viên, Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh Long An (trước hợp nhất), Huy hiệu 65 năm tuổi Đảng, có hơn 20 năm gắn bó với chiến trường Đức Hòa (huyện được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân sớm nhất) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ông được người dân địa phương đùm bọc, che chở, nuôi giấu và trưởng thành từ một trung đội trưởng đến tiểu đoàn trưởng rồi huyện đội trưởng trong giai đoạn chiến tranh ác liệt nhất 1968-1974 trước khi về làm Tham mưu phó Tỉnh đội Long An.

Ông Lý Văn Bé luôn tâm niệm “Nếu không có dân Đức Hòa, tôi đã không còn trên đời”
Một thời lửa đạn
“Từ Đồng khởi đến ngày giải phóng, Đức Hòa trải qua 9 đời huyện đội trưởng, chỉ 4 người còn sống, trong đó 1 thương binh phải ra quân, 1 chuyển địa bàn ngay khi mới nhận nhiệm vụ, số huyện đội phó hy sinh và bị thương thì không kể hết. Bấy nhiêu thôi là đủ thấy chiến tranh ác liệt đến mức nào và càng thấy rõ công lao, sự hy sinh lớn lao của bà con đã cưu mang, che chở cho bộ đội”.
Ông Sáu Bé mở đầu câu chuyện bằng giọng trầm. Nhắc lại chiến thắng Đức Lập năm 1965 – nơi nay đã dựng bia – ông cho rằng chiến công ấy được làm nên phần lớn từ tấm lòng của Nhân dân: “Trận này, bộ đội đánh thắng nhờ cách đánh đặc công “nở hoa trong lòng địch” nhưng khác hơn các nơi, bộ đội Đức Hòa đánh ngay vào trung tâm chỉ huy, trung tâm của trung tâm căn cứ. Nhờ vậy, thắng lợi lớn mà thương vong rất thấp. Có được cách đánh như thế là nhờ dân hiểu địa hình, hiểu đồn bót, sẵn lòng chỉ dẫn đường đi nước bước chính xác.
Hai lần đánh lực lượng bình định nông thôn cũng vậy. Lần đầu, dân chỉ đường, bộ đội luồn sâu, đặt trái, đánh gọn căn cứ nằm sâu cạnh Tòa hành chánh tỉnh mà không bị thương vong. Lần hai, nhờ chị Út Bửng (ấp Hậu Hòa, xã Đức Hòa Thượng cũ) nắm được quy luật sinh hoạt vị trí nghỉ trưa của đơn vị này. Rất tiếc dù Huyện đội đã tổ chức phương án rút lui nhưng do chị chủ quan không thực hiện nên đã hy sinh”.
Ông nhắc chiến công để tôn vinh và đau đáu với tấm lòng sự hy sinh của những người dân.
Hầm bí mật: sáng tạo, lòng kiên trung của người dân
Những năm 1969, Mỹ dùng xe ủi đào các gò đất, bờ tre, thanh sắt, phá hầm bí mật, thương vong của bộ đội tăng cao. Người dân Đức Hòa đã nghĩ ra những kiểu hầm ở vị trí bất ngờ: hầm giữa đồng trống, hầm bên giếng nước, thậm chí làm hầm dưới chân mộ song táng – nơi ông Sáu Bé từng ẩn nấp.
Không chỉ sáng kiến chọn chỗ an toàn, người dân còn bảo mật cực kỳ nghiêm ngặt, hầm bị lộ, cán bộ hy sinh, người đào hầm cũng liên lụy. Người đào hầm chỉ cho duy nhất cán bộ nào họ tin tưởng biết vị trí hầm. Có lần, ông Sáu đến nhà một cơ sở quen biết nhưng bị khoát tay từ chối vì đi cùng ông có một chú cận vệ lạ mặt. Ông hiểu đó không phải dè dặt đối với ông, mà ngại chú bảo vệ.
Với ông Sáu, hầu hết người dân Đức Hòa đều tin cậy tiết lộ vị trí hầm. Nhờ vậy, nhiều lần ông thoát hiểm trong gang tấc. Như lần ở Bàu Sen, lính càn đến bất ngờ, ông xuống hầm nhà dân gần đó mà không kịp báo chủ nhà. Suốt ngày hôm ấy, lính đóng ngay trên mặt hầm, còn chủ nhà là bà Tư Chưa đoán biết nên kiếm cớ lên tiếng đuổi gà, đuổi vịt để ra dấu an toàn. Khi quân địch đã lui xa, bà mới mở nắp hầm cho ông.
Má Chín, bà Mười và những tấm lòng kiên dũng
Người mà ông Sáu nhắc đến nhiều nhất là má Chín Trương Thị Giao (được phong tặng Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân năm 1978). Giữa thời điểm bình định ác liệt, má vẫn nuôi giấu ông ngay tại nhà mình. Lính nghi ngờ, lục soát thường xuyên, nhưng má bình tĩnh ứng xử, bảo toàn bí mật, an toàn.
Năm 1970, vượt sông Vàm Cỏ qua lại giữa căn cứ Ba Thu và Hiệp Hòa giống như đi qua lằn ranh sinh tử. Cán bộ thường ví von, nhiều người ăn 7 đòn bánh tét (chờ 7 ngày) mà chưa qua sông. Sốt ruột vì còn trung đội trinh sát ở Hiệp Hòa đang cần chỉ huy, ông Sáu cùng 2 cận vệ mượn xuồng vượt sông mà không chờ giao liên dẫn đường. Qua sông an toàn nhưng từ Hiệp Hòa qua Tân Phú, ông Sáu bị mìn Claymore nổ 2 mảnh thủng bụng, ông dùng khăn rằn buộc chặt, cố đi về điểm hẹn.
Phải mất 1 ngày 1 đêm, 2 cận vệ mới liên lạc với trung đội trinh sát và đưa ông đến nhà cơ sở chỉ cách bót lính hơn 50 mét. Nằm trong nhà nghe rõ tiếng lính trong đồn nói chuyện nhưng chính yếu tố bất ngờ này là điều kiện an toàn. Bà má chủ nhà cũng vững vàng động viên: “Đừng lo, cứ ở đây nghỉ ngơi!”. Phải mất thêm 1 ngày 1 đêm nữa trinh sát mới tìm gặp anh Á, y sĩ của đơn vị. Không có thuốc men, y cụ, ba anh Á phải bán 15 giạ lúa của gia đình để mua thuốc men chăm sóc vết thương cho ông Sáu. Từ lúc bị thương đến khi được băng bó điều trị mất cả mấy ngày, không bị nhiễm trùng là một phép màu.
Không thể ở lâu một chỗ, ông cùng 2 cận vệ băng đồng về Tân Phú, đến một nhà dân nhưng chủ nhà ra dấu không an toàn, lại phải đi tiếp sang khu vực khác gặp ông bí thư xã và được một người dân tiếp đón. Hôm sau, chủ nhà cho biết, người lính thông ngôn cho Mỹ nhắn tin “Mấy ông đừng đi lại khu vực này, Mỹ thường phục kích đêm. Hôm qua, tui kiếm cớ còn xa nên cản 2 lần, nếu không Mỹ bắn chết ông mang tấm bông dù rồi!”.
Người mang tấm bông dù ấy chính là ông Sáu. Nhờ người thân bắt liên lạc với xã Đức Lập, ông Sáu và 2 cận vệ đi về Đức Lập, được bà Mười A, cô ruột của anh Xã đội trưởng, hết lòng nuôi dưỡng, thậm chí còn móc nối đưa vợ con ông lên thăm. Tình dân, lòng dân Đức Hòa khẳng khái, ấm áp trong nguy nan đến như vậy đó!
Nỗi đau thời chiến và tấm lòng vượt lằn ranh
Chiến tranh ác liệt không chỉ có tình người mà còn có cả những nỗi đau. Trước khi ông Sáu rời Tân Phú, ông Bí thư xã bàn giao hầm bí mật và báo rằng sẽ đi xuống ấp làm công tác chính trị, chiều về nhưng chiều hôm ấy đã dẫn lính quay về khui hầm bí mật. May mà ông Sáu đã đoán được nên rời đi. Ông Xã đội trưởng Đức Lập từng dũng cảm, nhiệt tình đón ông Sáu một thời gian sau đó cũng chiêu hồi. Điều đau đớn là bà Mười A vì là cô ruột của ông ta nên bị liên lụy.
Chiến tranh quá tàn khốc, sinh mạng quá mong manh. Phẩm chất con người cũng bị thử thách nghiệt ngã, khoảng cách giữa anh hùng và phản bội đôi lúc không còn ranh giới. Nhầm lẫn, sai sót cũng là điều không tránh khỏi. Anh chị ruột và ông anh họ thứ tám của ông Sáu từng là cơ sở cách mạng, từng đào hầm nuôi giấu cán bộ nhưng cũng bị xử lý vì nhầm lẫn. Khi xác minh, làm rõ vụ này lại thêm mấy cán bộ cấp trên bị hy sinh. Ông nói: “Chiến tranh là vậy, có những mất mát đến từ nhiều phía, không ai muốn điều đau lòng ấy xảy ra”.
Điều khiến ông nhớ nhất không phải chỉ là tấm lòng má Chín, bà Mười A, bà má ở Hiệp Hòa… mà còn cả những người ở phía bên kia, như anh thông ngôn từng cứu ông. Trong thời khắc nguy nan, một hành động nhân ái cũng đủ cứu mạng người. Còn nữa, còn bao nhiêu đồng chí, đồng đội từng chia sẻ gian nan đã ngã xuống trước ngày thống nhất.
Ở tuổi 88, trải qua cận kề sinh tử, ông Sáu chậm rãi nói: “Nếu không có dân Đức Hòa, tôi đã không còn trên đời. Những tấm lòng ấy tôi mang theo suốt cuộc đời, chưa đền đáp được. Giờ chỉ mong nói lại một tiếng tri ân”. Với ông, hòa bình hôm nay không chỉ là sự kết thúc chiến tranh mà là sự hòa hợp và biết ơn tất cả những nghĩa tình đã gìn giữ sự sống con người trong những ngày khốc liệt nhất. “Đó là chiến thắng chung của dân tộc và là công ơn của biết bao phận người – dù họ thuộc về bên nào”./.
Anh Kiệt (ghi)

