Hỏi – Đáp một số chính sách đối với người cao tuổi

 Người cao tuổi là lớp người giàu kinh nghiệm, có vai trò quan trọng trong gia đình và xã hội. Việc quan tâm, chăm sóc, bảo đảm quyền lợi cho người cao tuổi không chỉ thể hiện truyền thống đạo lý “kính lão, trọng thọ” mà còn là trách nhiệm của Nhà nước trong hệ thống chính sách an sinh xã hội. Nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách cụ thể nhằm hỗ trợ, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho người cao tuổi.

Tuy nhiên, trên thực tế, không ít trường hợp người dân và cả cán bộ cơ sở vẫn còn lúng túng khi tiếp cận, áp dụng các quy định pháp luật liên quan. Để giúp làm rõ những vấn đề thường gặp, phóng viên đã có cuộc trao đổi với Đại biểu Quốc hội, Phó Giám đốc Sở Y tế Nguyễn Hoàng Uyên về một số chính sách đối với người cao tuổi.

Phóng viên (PV): Thưa bà, theo Luật người cao tuổi, ở độ tuổi nào được xác định là người cao tuổi?

Ths Nguyễn Hoàng Uyên: Điều 2 Luật người cao tuổi, quy định: Người cao tuổi được quy định trong Luật này là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên.

PV: Có ý kiến thắc mắc, bà tôi năm nay 77 tuổi, không có lương hưu, không hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng. Nay gia đình mới lập hồ sơ đề nghị trợ cấp cho bà. Vậy bà tôi có được truy lãnh khoản trợ cấp kể từ khi đủ 75 tuổi không?

Ths Nguyễn Hoàng Uyên: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 4 Nghị định 176/2025/NĐ-CP ngày 30.6.2025 của Chính phủ quy định, quy định: “Thời gian hưởng chế độ trợ cấp hưu trí xã hội hằng tháng tính từ tháng Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký quyết định.”

Như vậy, bà của bạn chỉ được hưởng trợ cấp kể từ tháng có quyết định của Chủ tịch UBND cấp xã, không được truy lãnh khoản trợ cấp tính từ thời điểm đủ 75 tuổi.

PV: Anh H ngụ tại xã Tân Biên đặt câu hỏi, cạnh nhà tôi có vợ chồng ông bà hàng xóm, ông 72 tuổi, bà 73 tuổi, thuộc hộ cận nghèo, không có lương hưu và cũng không hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng. Xin hỏi, ông bà có được hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng không?

Ths Nguyễn Hoàng Uyên: Theo Điều 2 Nghị định số 176/2025/NĐ-CP, quy định: công dân Việt Nam từ đủ 70 tuổi đến dưới 75 tuổi, thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo theo quy định của Chính phủ và không hưởng lương hưu, không hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng thì được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội. Vì vậy, ông bà hàng xóm của bạn đủ điều kiện để được xem xét hưởng trợ cấp hưu trí xã hội theo quy định.

Anh-tin-bai

Phó chủ tịch UBND tỉnh Phạm Tấn Hoà và lãnh đạo Sở Y tế thăm, tặng quà cho người cao tuổi tại Trung tâm Bảo trợ xã hội.

PV: Thưa bà, nhiều người dân cũng băn khoăn, từ khi nộp hồ sơ đến khi nhận được trợ cấp hưu trí xã hội thì mất bao lâu?

Ths Nguyễn Hoàng Uyên: Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 4 Nghị định 176/2025/NĐ-CP: “Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị hưởng trợ cấp hưu trí xã hội, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức xem xét, thực hiện xác thực và chuẩn hoá thông tin liên quan của người đề nghị trợ cấp hưu trí xã hội với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, quyết định và thực hiện chi trả trợ cấp hưu trí xã hội cho người đề nghị theo quy định pháp luật. Thời gian hưởng chế độ trợ cấp hưu trí xã hội hằng tháng tính từ tháng Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký quyết định”.

PV: Trường hợp ông Năm, 68 tuổi, sống một mình, là người cao tuổi thuộc diện hộ nghèo, không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng, ông hay bị đau ốm, điều kiện nhà ở cũng chưa đảm bảo. Trong ấp có bà Lan thương hoàn cảnh nên muốn đưa ông về nhà chăm sóc. Tuy nhiên, bà Lan hiện đang bị bệnh mãn tính, sức khỏe hạn chế, kinh tế gia đình cũng khó khăn. Vậy bà Lan có thể nhận nuôi dưỡng, chăm sóc ông Năm để được hưởng chế độ nhận chăm sóc người cao tuổi theo quy định hay không?

Ths Nguyễn Hoàng Uyên: Theo quy định tại Điều 23 Nghị định số 20/2021/NĐ-CP thì điều kiện, trách nhiệm đối với người nhận chăm sóc, nuôi dưỡng người khuyết tật đặc biệt nặng và người cao tuổi đủ điều kiện sống tại cơ sở trợ giúp xã hội, được quy định như sau:

“a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;

b) Có sức khoẻ, kinh nghiệm và kỹ năng chăm sóc người khuyết tật, người cao tuổi;

c) Có nơi ở ổn định và nơi ở cho người khuyết tật, người cao tuổi;

d) Có điều kiện kinh tế;

đ) Đang sống cùng chồng hoặc vợ thì chồng hoặc vợ phải bảo đảm điều kiện quy định tại điểm a và b khoản này”.

Trong trường hợp của bà Lan, do sức khỏe không bảo đảm và kinh tế khó khăn nên không đủ điều kiện nhận chăm sóc, nuôi dưỡng ông Năm tại cộng đồng. Với hoàn cảnh này, nếu có nhu cầu được vào sống tại cơ sở trợ giúp xã hội, ông Năm hoặc người giám hộ của ông có thể làm hồ sơ theo quy định, gửi UBND cấp xã nơi cư trú để được xem xét, giới thiệu và hoàn tất thủ tục tiếp nhận ông Năm vào cơ sở trợ giúp xã hội.

PV: Có một người dân thắc mắc: Ba tôi năm nay 82 tuổi, đang hưởng trợ cấp tuất bảo hiểm xã hội hàng tháng từ cơ quan Bảo hiểm xã hội. Vừa qua, ông mất vào ngày 4.9.2025. Xin hỏi gia đình tôi có được nhận hỗ trợ kinh phí mai táng theo quy định tại Nghị định số 20/2021/NĐ-CP hay không? Mức hỗ trợ là bao nhiêu và hồ sơ cần chuẩn bị gồm những gì?

Ths Nguyễn Hoàng UyênTheo quy định tại Điều 11 Nghị định số 20/2021/NĐ-CP thì trường hợp người cao tuổi từ đủ 80 tuổi trở lên, đang được trợ cấp tuất bảo hiểm xã hội hàng tháng khi chết sẽ được hỗ trợ chi phí mai tang,  tối thiểu bằng 20 lần mức chuẩn trợ giúp xã hội (hiện tại là 10.000.000 đồng).

Hồ sơ đề nghị hỗ trợ chi phí mai táng bao gồm:

– Tờ khai đề nghị hỗ trợ chi phí mai táng của cơ quan, tổ chức, hộ gia đình hoặc cá nhân đứng ra tổ chức mai táng cho đối tượng theo Mẫu số 04 ban hành kèm theo Nghị định số 20/2021/NĐ-CP;

– Bản sao giấy chứng tử của đối tượng;

– Bản sao quyết định hoặc danh sách thôi hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội.

PV: Chị Huệ, ngụ tại xã Tân Biên đặt câu hỏi: Cha tôi năm nay 75 tuổi, hộ khẩu thường trú tại xã Tân Biên, nhưng hiện đang sống cùng anh trai tôi ở phường Kiến Tường. Xin hỏi, cha tôi có thể nộp hồ sơ xin hưởng trợ cấp hưu trí xã hội tại nơi đang tạm trú hay phải về địa phương có hộ khẩu thường trú?

Ths Nguyễn Hoàng UyênTheo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 4 Nghị định số 176/2025/NĐ-CP, quy định: Người đề nghị trợ cấp hưu trí xã hội có văn bản đề nghị hưởng trợ cấp hưu trí xã hội đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, nơi cư trú.

Khái niệm nơi cư trú được hiểu theo Luật Cư trú, bao gồm nơi thường trú, nơi tạm trú.

Như vậy, cha của bạn có thể làm hồ sơ ở nơi tạm trú, với điều kiện đã đăng ký tạm trú theo quy định.

PV: Một bạn đọc ở xã Đức Hòa nêu trường hợp: ngày 27.8.2025, tôi đã nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp hưu trí xã hội cho ông tôi tại UBND xã. Tuy nhiên, đến 05.9.2025 thì ông tôi qua đời, trong khi chưa có quyết định hưởng trợ cấp. Xin hỏi, ông tôi có được tính hưởng trợ cấp xã hội của tháng 8 hoặc tháng 9 hay không? Vì sao hồ sơ chưa được giải quyết?

ThS. Nguyễn Hoàng Uyên: Theo điểm b khoản 1 Điều 4 Nghị định số 176/2025/NĐ-CP, trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ, Chủ tịch UBND cấp xã tổ chức xem xét, xác thực và chuẩn hóa thông tin của người đề nghị với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, sau đó mới ban hành quyết định và thực hiện chi trả trợ cấp hưu trí xã hội. Thời gian hưởng trợ cấp được tính từ tháng Chủ tịch UBND cấp xã ký quyết định.

Trong trường hợp cụ thể này, khi ông của bạn qua đời, hồ sơ vẫn đang trong thời hạn giải quyết theo quy định, chưa đến thời điểm ban hành quyết định nên chưa phát sinh quyền hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng. Tuy nhiên, theo khoản 1 Điều 5 Nghị định này, người đứng ra lo mai táng cho ông sẽ được hưởng chế độ hỗ trợ chi phí mai táng theo quy định.

PV: Một bạn đọc đặt câu hỏi: Bà tôi hiện đang hưởng chế độ ưu đãi người có công với cách mạng theo quy định của Pháp lệnh Ưu đãi người có công. Nay bà đã 79 tuổi, xin hỏi bà có được hưởng thêm trợ cấp dành cho người từ đủ 75 tuổi trở lên hay không? Nếu có, khoản trợ cấp này có được truy lĩnh từ thời điểm đủ 75 tuổi đến nay hay không?

Ths Nguyễn Hoàng Uyên: Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị định 176/2025/NĐ-CP ngày 30.6.2025 của Chính phủ: công dân Việt Nam từ đủ 75 tuổi trở lên, không hưởng lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng; hoặc đang hưởng lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng thấp hơn mức trợ cấp hưu trí quy định tại Nghị định này, thuộc diện được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.

Quy định này không loại trừ trường hợp người từ đủ 75 tuổi đang hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng. Đồng thời, tại điểm b khoản 1 Điều 4 Nghị định 176/2025/NĐ-CP cũng quy định: “Thời gian hưởng chế độ trợ cấp hưu trí xã hội hằng tháng tính từ tháng Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký quyết định.”

Như vậy, bà của bạn, dù đang hưởng trợ cấp ưu đãi người có công, vẫn thuộc diện được nhận trợ cấp xã hội hằng tháng dành cho người từ đủ 75 tuổi trở lên, với mức 500.000 đồng/tháng. Tuy nhiên, thời điểm hưởng trợ cấp được tính kể từ tháng có quyết định của Chủ tịch UBND cấp xã, không được truy lãnh từ thời điểm bà đủ 75 tuổi.

PV: Một người dân thắc mắc: gần nhà tôi có bà Hoàng Thị Hoa, năm nay 61 tuổi, thuộc diện hộ nghèo chuẩn Trung ương. Bà sống một mình, không có chồng, con, cháu hay họ hàng thân thích. Vậy bà có được hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng tại cộng đồng hay không? Nếu có thì mức hưởng là bao nhiêu?

Ths Nguyễn Hoàng Uyên: Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 5 Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15.3.2021 của Chính phủ quy định: Người cao tuổi thuộc diện hộ nghèo, không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng nhưng người này đang hưởng chế độ trợ cấp xã hội hàng tháng là đối tượng thuộc diện hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng.

Như vậy, bà Hoàng Thị Hoa thuộc diện được hưởng chính sách này.

 

Mức trợ cấp

xã hội hàng tháng

= Mức chuẩn trợgiúp xã hội

 

x Hệ số tương ứng

 

Cụ thể, theo Nghị định số 76/2024/NĐ-CP, mức chuẩn trợ giúp xã hội là 500.000 đồng/tháng. Đối với người từ đủ 60 tuổi đến 80 tuổi, hệ số áp dụng là 1,5 (theo điểm đ khoản 1 Điều 6 Nghị định số 20/2021/NĐ-CP).

Như vậy, mức trợ cấp bà Hoa được hưởng là: 500.000 đồng x 1,5 = 750.000 đồng/tháng.

 

Hương Giang – Phòng Bảo trợ xã hội và Trẻ em (tổng hợp)