Bài dự thi “Việt Nam trong tôi”: Chuyện về nữ tướng đầu tiên của QĐND Việt Nam và người du kích trong bài thơ nổi tiếng

 Bùi Minh Tuệ (Hà Nội) 
Trải qua các cuộc kháng chiến giành độc lập, tự do cho dân tộc, người phụ nữ Việt Nam đã trải qua những nỗi đau, mất mát cả trong thời chiến lẫn thời bình. Hai người vợ liệt sĩ mà tôi gặp và đề cập trong bài viết này chỉ là số ít trong rất nhiều những người vợ, người mẹ đã mạnh mẽ vượt qua bão giông, biến hậu phương trở thành “pháo đài” vững chắc để đảm đang việc nước, việc nhà.

Khoảng lặng của nữ tướng Nguyễn Thị Định

Cách đây 5 năm, vào dịp kỷ niệm ngày thương binh liệt sĩ, tôi được Thượng tá, Bác sĩ Phạm Thị Tín (nguyên cán bộ Phòng Quân y, Bộ Tổng tham mưu) hẹn tới nhà riêng của bà ở phố Hàng Chuối (TP Hà Nội). Bà bảo: “Tôi có nhiều kỷ niệm với Thiếu tướng Nguyễn Thị Định vì có 9 năm làm nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe bà Ba Định”. Nói rồi bà Tín lật giở những cuốn album, trong đó có rất nhiều tấm ảnh gắn với những năm tháng bà được vinh dự phục vụ nữ Thiếu tướng đầu tiên của Quân đội ta.

Năm 1984, bà Tín được cấp trên biệt phái sang Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam làm nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe Thiếu tướng Nguyễn Thị Định. Không chỉ là bác sĩ riêng, trong những chuyến công tác xa, bà Tín còn kiêm thêm công việc của người phục vụ, đọc tài liệu… giúp bà Ba Định. “Nữ tướng Nguyễn Thị Định có một lối sống rất gần gũi, từ lái xe, bảo vệ, thư ký cho tới bác sĩ riêng, bà đều tới tận nhà thăm hỏi cuộc sống từng gia đình. Riêng tôi được bà tin tưởng, coi như người nhà”, bà Tín nhớ lại.

Thiếu tướng Nguyễn Thị Định (thứ tư, từ phải sang) trong một chuyến công tác tại Hải Phòng (bà Phạm Thị Tín đứng thứ tư, từ bên trái). (Ảnh: NVCC)

Kỷ niệm đọng lại trong ký ức bà Tín là hình ảnh một nữ tướng có lối sống giản dị, tiết kiệm: “Biết tôi là người bên quân đội nên mỗi khi đi công tác miền Nam, bà thường bảo tôi liên hệ đi nhờ máy bay quân sự, lần thì bà gợi ý để tôi với cậu bảo vệ đi vào bằng tàu hỏa. Bà muốn làm vậy là để tiết kiệm từng đồng kinh phí cho Trung ương Hội”.

Ôn lại những kỷ niệm khó quên với vị tướng xứ dừa, bà Tín xúc động kể về những nỗi buồn mà nữ tướng Nguyễn Thị Định vẫn luôn giấu kín trong lòng, đó là nỗi đau quạnh vắng mà người vợ, người mẹ Nguyễn Thị Định phải trải qua trong suốt hai cuộc kháng chiến và cả những năm cuối đời. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhiều người thường thấy một tấm ảnh quen thuộc với dòng chú thích: “Bà Ba Định vá áo cho chiến sĩ”. Ở chiến trường, bà Ba Định từng vá áo cho những chiến sĩ Quân giải phóng, nhưng người mẹ ấy đã không có dịp được vá áo cho người con trai duy nhất. Năm 1960, giữa chiến trường khói lửa, bà vô cùng đau xót khi nhận tin người con đang học tập ở ngoài Bắc vĩnh viễn ra đi vì trọng bệnh.

Nguyễn Ngọc Minh (tên thường gọi là On) là giọt máu của bà với người chồng liệt sĩ Nguyễn Văn Bích. Trong kháng chiến chống Pháp, ông Bích bị đày ra Côn Đảo và hy sinh trong lao tù của thực dân. Từ nhỏ, Minh được gửi ra Bắc học tập, còn bà Ba Định tiếp tục ở lại hoạt động ở chiến trường miền Nam. Bà Tín được những người thân cận cùng công tác với bà Ba Định kể lại, ở chiến trường, nhìn những chiến sĩ Quân giải phóng tuổi mười tám, đôi mươi, bà Ba Định đã không khỏi chạnh lòng khi nhớ tới người con đã mất. Đó là những nỗi đau giấu kín, không bao giờ bà nói ra, nhưng mỗi khi đêm về hoặc nhận tin đồng đội hy sinh, bà lại lặng lẽ khóc một mình. Đất nước thống nhất, bà Ba Định ra công tác ngoài Hà Nội, khi ấy, bà mới có dịp tới thắp hương bên mộ con. Bà Tín kể rằng, mỗi năm bà Ba Định thường có 2-3 lần tới Bất Bạt (Ba Vì) để thắp hương cho con trai. “Những lần ấy, tôi và bảo vệ, thư ký đều đi cùng bà. Sau khi làm lễ, thắp hương và ăn uống xong, bà bảo chúng tôi mang bộ bài ra và chơi cùng. Chúng tôi hiểu, bà làm vậy là muốn được kéo dài thời gian ở bên con”.

Không còn những người ruột thịt bên mình, bà tìm niềm vui trong công việc. Nhưng vị tướng trận mạc ấy cũng có những khoảng lặng và nỗi niềm sâu kín bộc bạch cùng bà Tín vào mỗi chuyến công tác, đó là những thổn thức xót xa rằng bà chưa có dịp làm tròn bổn phận của một người vợ, làm tròn thiên chức của một người mẹ…

Có một hình ảnh khó quên đối với bà Tín, đó là một ngày giữa tháng 8/1992, khi bàn giao công việc để chuẩn bị về nghỉ hưu, bà Ba Định trở về miền Nam, mang theo lọ tro cốt người con trai. Tại nhà riêng ở TP Hồ Chí Minh, lọ tro cốt được bà Ba Định để trên ban thờ hương khói, chờ ngày xây mộ phần cho con. “Bà Ba Định vào miền Nam cùng lời hẹn sau dịp Quốc khánh 2/9 sẽ ra Hà Nội liên hoan chia tay anh chị em phục vụ, nào ngờ, ngày 26/8/1992, bà đột ngột từ trần sau một chuyến công tác”, bà Tín xúc động kể.

Nữ tướng Nguyễn Thị Định ra đi khi khi mọi dự định của bà vẫn còn dang dở. Đó là dự định xây cất phần mộ cho người con duy nhất; là mong muốn tìm được mộ chí của người chồng liệt sĩ hy sinh ngoài Côn Đảo; là buổi liên hoan chia tay với những người từng gần gũi, sát cánh cùng bà trong thời gian công tác ngoài Hà Nội…

Thực hiện tâm nguyện của bà, trong lễ an táng Thiếu tướng Nguyễn Thị Định, tro cốt của người con trai đã được an táng cùng bà ở Nghĩa trang TP Hồ Chí Minh. Và sau này, các đồng đội đã giúp bà Ba Định thực hiện tâm nguyện tìm được mộ chí của người chồng liệt sĩ ở Nghĩa trang Hàng Dương, Côn Đảo. Chỉ còn buổi liên hoan như lời hẹn sau ngày Quốc khánh với bà Ba Định là bà Tín và đồng đội không bao giờ thực hiện được. Đó cũng là nỗi day dứt mà mỗi khi nhắc lại, bà Tín đều không cầm được nước mắt.

Gái Bãi Sậy đánh Tây bằng đòn gánh

Đến thôn Bắc Châu, xã Đông Kết, huyện Khoái Châu (nay là xã Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên) hỏi thăm nhà bà Trương Thị Tám, hầu hết người dân trong xã đều biết. Gặp bà Tám, chúng tôi không khỏi ngạc nhiên khi thấy bà trẻ hơn nhiều so với tuổi ngoài 90, nhất là khi được nghe bà kể lại về một thời trận mạc từng diễn ra cách đây hơn 70 năm.    

Chuyện bắt đầu từ cuối năm 1951, khi cô bé 17 tuổi Trương Thị Tám tình nguyện tham gia kháng chiến, xung phong vào đội du kích của xã. Trải qua các khóa huấn luyện, tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, Trương Thị Tám sớm trở thành nữ du kích mưu trí, dũng cảm.

Bà Trương Thị Tám ôn lại kỷ niệm trong những năm tham gia hoạt động cách mạng ở vùng địch hậu Hưng Yên. (Ảnh: Minh Tuệ)

Sáng 20/6/1953, trên đê Phương Trù, nữ du kích Trương Thị Tám dẫn một tổ đi đầu, mang theo những gánh rau, chuối vào chợ bán, một tổ khác giả vờ cắt cỏ đi dưới chân đê, phía xa là hai anh bộ đội địa phương được cải trang thành phụ nữ, mang theo hai súng tiểu liên yểm trợ. Khi vừa đến chỗ tốp lính có khẩu súng trung liên, Trương Thị Tám bất ngờ hô to: “Xung phong…” rồi tuốt ngay đòn gánh phang vào đầu tên giữ khẩu trung liên. Hai chị cùng đi cũng rút đòn gánh đánh địch tới tấp.

“Lúc đó, tôi xông vào cướp khẩu trung liên, vật tên này xuống bóp cổ. Hắn chống cự quyết liệt làm cả tôi và hắn lăn xuống dốc đê. Tên địch cắn mạnh vào tay tôi rồi vùng chạy. Mấy tên khác xúm vào cướp được khẩu trung liên, cùng lúc đó, các chị ở tổ cắt cỏ cũng lao lên và hô xung phong, dùng đòn gánh đánh vào bọn lính túi bụi. Hai anh bộ đội từ phía sau đồng loạt nổ súng, bọn địch hoảng hốt hô “Việt Minh đông quá!” rồi tháo chạy về bốt”. Trận đó, ta tiêu diệt 1 tên địch, làm 2 tên khác bị thương nặng, thu 1 khẩu súng trường, 1 máy điện đàm, 1 hòm đạn. Bốt Phương Trù sau đó bị ta bao vây và 20 ngày sau thì bị tiêu diệt hoàn toàn…” – bà Tám nhớ lại.

Năm 1966, khi về công tác tại Hưng Yên và được nghe kể về thành tích của nữ du kích Trương Thị Tám, nhà thơ Huy Cận đã viết tặng bà Tám bài thơ “Gái Bãi Sậy sông Hồng”: Đơn giản có gì đâu/ Con gái vùng du kích/ Tuổi bẻ gãy sừng trâu/ Đòn gánh dồn đánh địch…/ Kẻ thù dẫu thay vai/ Ta đâu ngừng đánh trận/ Hậu phương cũng pháo đài/ Chị vững vàng đòn gánh…

Bài thơ và bút tích của nhà thơ Huy Cận hiện vẫn được bà Tám trân trọng lưu giữ, trở thành kỷ vật khó quên về một thời “bẻ gãy sừng trâu” của bà và đồng đội. Do có thành tích xuất sắc trong kháng chiến, bà 3 lần được chọn là nữ du kích đại diện cho lực lượng Nữ du kích Hoàng Ngân tham gia Lễ duyệt binh tại Hà Nội trong các năm 1954-1956 và có 6 lần vinh dự được gặp Bác Hồ. Năm 2018, bà đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân.

Bà Trương Thị Tám. (Ảnh: Minh Tuệ)

Từng nổi danh là một nữ du kích dũng cảm, đảm đang công tác xã hội và công việc gia đình, nhưng ít người biết rằng, nữ du kích Trương Thị Tám đã sớm phải gánh chịu nỗi đau quạnh vắng từ khi còn rất trẻ. Cuối năm 1955, cô thôn nữ Trương Thị Tám xây dựng gia đình với chàng trai Đỗ Trọng Hội, người cùng xã, là bộ đội chống Pháp và vừa xuất ngũ sau ngày hòa bình lập lại. Khi giặc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, năm 1968, bà Tám động viên chồng mình tái ngũ, lên đường vào Nam chiến đấu.

Bẵng đi mấy năm (1969-1971), bà linh tính chuyện chẳng lành vì không nhận được thư từ, tin tức gì của chồng. Sốt ruột, bà lên cơ quan quân sự huyện, rồi lên tỉnh dò hỏi, mọi người đều bảo không biết. Bà trở về, tiếp tục đảm đang việc nước, việc nhà và không nguôi hy vọng, mong ngóng tin chồng. “Một hôm, tôi tới gặp các anh ở ủy ban xã, bảo: “Thôi, các anh đừng giấu tôi nữa. Tôi đã xác định tư tưởng rồi. Tin tức của chồng tôi cụ thể thế nào, các anh cứ thông báo để tôi được biết” – bà Tám kể lại chuyện xưa mà nước mắt lăn dài.

Cuối cùng, điều chẳng lành mà bà linh tính đã trở thành sự thật. Năm 1972, chính quyền địa phương chính thức thông báo tới gia đình và tổ chức lễ truy điệu cho chồng bà – liệt sĩ Đỗ Trọng Hội. Bà Tám đau xót nhận giấy báo tử của chồng và được biết người bạn đời của mình đã hy sinh từ năm 1969. Năm ấy, bà Tám gánh chịu nỗi đau mất chồng khi đang ở tuổi 36. Hình ảnh nữ Bí thư Đảng ủy xã Trương Thị Tám vấn khăn tang, tới các gia đình động viên họ đóng góp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến chống Mỹ trở thành hình ảnh xúc động, lay động tâm can nhiều người dân trong xã..

Nén đau thương, mất mát, bà Tám dồn tất cả tâm trí, sức lực để thay chồng chăm sóc cha mẹ, nuôi dạy 4 người con và tiếp tục tham gia công tác xã hội.

Giờ đây, khi đã nghỉ hưu và hằng ngày sum vầy cùng con cháu, bà Tám vẫn canh cánh một nỗi niềm, cũng là tâm nguyện mà hàng chục năm qua bà và những người con đã nỗ lực thực hiện nhưng chưa thành. Đó là dù mong manh, nhưng bà vẫn luôn mong mỏi có được thông tin về phần mộ của người chồng liệt sĩ, để trong những năm cuối đời, bà sẽ được phần nào vơi bớt nỗi đau quạnh vắng…